Bản đồ Canada – Những thông tin cần biết về bản đồ Canada

Canada là một quốc gia phát triển và nằm trong số các quốc gia giàu có nhất trên thế giới, với thu nhập bình quân đầu người cao thứ tám toàn cầu, và chỉ số phát triển con người cao thứ 11. Canada được xếp vào hàng cao nhất trong các so sánh quốc tế về giáo dục, độ minh bạch của chính phủ, tự do dân sự, chất lượng sinh hoạt, và tự do kinh tế. Cùng chúng tôi tìm hiểu những thông tin qua bản đồ Canada qua bài viết dưới đây các bạn nhé!

Vị trí địa lý của Canada

canada 4
Vị trí địa lý của Canada

Canada là một quốc gia Bắc Mỹ, phía bắc giáp Bắc Cực và tiểu bang Alaska, phía nam giáp Hoa Kỳ. Đây là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Liên bang Nga, và nằm ở cực bắc của Bắc Mỹ. Lãnh thổ Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông sang Thái Bình Dương ở phía tây, và giáp Bắc Băng Dương ở phía bắc. Về phía nam, Canada giáp với Hoa Kỳ bằng một biên giới không bảo vệ dài nhất thế giới. phía tây bắc của Canada giáp với tiểu bang Alaska của Hoa Kỳ. đông bắc của Canada có đảo Greenland (thuộc Đan Mạch). Ở bờ biển phía đông có quần đảo Saint-Pierre và Miquelon (thuộc Pháp). Biên giới chung của Canada với Hoa Kỳ về phía nam và phía tây bắc là đường biên giới dài nhất thế giới.

Địa hình Canada

Canada chiếm phần lớn phía bắc của Bắc Mỹ, có biên giới trên bộ với Hoa Kỳ liền kề ở phía nam và bang Alaska của Hoa Kỳ ở phía tây bắc. Canada trải dài từ Đại Tây Dương ở phía đông đến Thái Bình Dương ở phía tây, phía bắc là Bắc Băng Dương. Greenland thuộc Vương quốc Đan Mạch nằm ở phía đông bắc, còn Saint Pierre và Miquelon thuộc Pháp thì nằm ở phía nam đảo Newfoundland của Canada. Theo tổng diện tích, Canada là quốc gia lớn thứ hai trên thế giới, sau Nga. Theo diện tích đất, Canada xếp thứ tư Quốc gia nằm giữa các vĩ độ 41°B và 84°B, và giữa các kinh độ 52° T và 141°T.

canada
Địa hình Canada

Kể từ năm 1925, Canada tuyên bố chủ quyền với phần thuộc vùng Bắc Cực nằm giữa 60°T và 141°T, song yêu sách này không được công nhận phổ biến. Canada là nơi có khu định cư viễn bắc nhất của thế giới, đó là trạm Alert của Quân đội Canada, nằm ở mũi phía bắc của đảo Ellesmere – vĩ độ 82,5°B – cách Bắc Cực 817 kilômét (508 mi). Phần lớn vùng Bắc Cực thuộc Canada bị băng và tầng đất đóng băng vĩnh cửu bao phủ. Canada có đường bờ biển dài nhất trên thế giới, với tổng chiều dài là 202.080 kilômét (125.570 mi); thêm vào đó, biên giới Canada-Hoa Kỳ là biên giới trên bộ dài nhất thế giới, trải dài 8.891 kilômét (5.525 mi).

Từ khi kỷ băng hà cuối cùng kết thúc, Canada gồm có tám miền rừng riêng biệt, gồm có rừng phương Bắc rộng lớn trên khiên Canada. Canada có khoảng 31.700 hồ lớn hơn 3 kilômét vuông (300 ha), nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác, và chứa nhiều nước ngọt của thế giới.Cũng có một số sông băng nước ngọt trên Dãy núi Rocky của Canada và Dãy núi Coast. Canada là khu vực hoạt động về mặt địa chất, có nhiều động đất và núi lửa hoạt động tiềm năng, đáng chú ý là núi Meager, núi Garibaldi, núi Cayley, và tổ hợp núi lửa núi Edziza. Vụ Tseax Cone phun trào núi lửa vào năm 1775 nằm trong số các thảm họa tự nhiên tệ nhất tại Canada, sát hại 2.000 người Nisga’a và hủy diệt làng của họ tại thung lũng sông Nass ở bắc bộ British Columbia. Vụ phun trào tạo ra dòng chảy nham thạch dài 22,5 kilômét (14,0 mi), và theo truyền thuyết của người Nisga’a thì nó chặn dòng chảy của sông Nass. Mật độ dân số của Canada là 3,3 người trên kilômét vuông (8,5 /sq mi), nằm vào hàng thấp nhất trên thế giới. Phần có mật độ dân số đông đúc nhất của quốc gia là hành lang Thành phố Québec – Windsor, nằm tại Nam bộ Québec và Nam bộ Ontario dọc theo Ngũ Đại Hồ và sông St. Lawrence.

Nhiệt độ tối cao trung bình mùa đông và mùa hè tại Canada khác biệt giữa các khu vực. Mùa đông có thể khắc nghiệt tại nhiều nơi của quốc gia, đặc biệt là trong vùng nội địa và các tỉnh thảo nguyên, là những nơi có khí hậu lục địa với nhiệt độ trung bình ngày là gần −15 °C (5 °F), song có thể xuống dưới −40 °C (−40 °F) với các cơn gió lạnh dữ dội Tại các vùng không nằm ven biển, tuyết có thể bao phủ mặt đất gần sáu tháng mỗi năm, trong khi các phần ở phía bắc có thể dai dẳng quanh năm. British Columbia Duyên hải có một khí hậu ôn hòa, với một mùa đông ôn hòa và mưa nhiều. Ở các vùng bờ biển phía đông và phía tây, nhiệt độ tối cao trung bình thường là dưới hai mươi mấy độ C, trong khi tại lãnh thổ giữa các vùng bờ biển thì nhiệt độ tối cao vào mùa hạ biến động từ 25 đến 30 °C (77 đến 86 °F), nhiệt độ tại một số nơi ở nội địa thỉnh thoảng vượt quá 40 °C (104 °F).

Khi hậu Canada

canada 5
Khi hậu Canada

Giống như cảnh quan, khí hậu Canada cũng đa dạng và khác biệt giữa các vùng miền trên cả nước.

Mùa hè kéo dài từ khoảng tháng 6 đến tháng 9, thời tiết ấm dần theo thời gian, nền nhiệt ban ngày dao động từ 200C đến 300C, thậm chí cao hơn. Riêng miền nam Ontario và Quebec, khí hậu mùa hè có thể rất ẩm ướt.

Khí hậu mùa hè ở Toronto cũng như tại một số thành phố khác ở phương Tây: khá dễ chịu sau một mùa đông dài, lạnh và không có nắng. Không những đối với người châu Á mà hầu như người dân vào ở xứ sở này ai cũng thích mùa hè nhất, khi thời tiết ấm lên là cơ hội để người ta làm đẹp và đổ ra phố và cũng là mùa của lễ hội và du lịch.

Mùa thu và mùa xuân là những mùa chuyển tiếp trong năm. Giai đoạn này, thời tiết thường trở nên lạnh hoặc ấm hơn bình thường, lượng mưa tăng lên rõ rệt.

Vào mùa đông thì khí hậu Canada thường rất lạnh, nhiệt độ luôn ở mức dưới 00C. Khắp nơi đều có tuyết bao phủ suốt từ tháng 12 đến tháng 3, tháng 4. Chỉ riêng khu vực phía Tây Nam British Columbia (bao gồm cả thành phố Victoria và Vancouver), dù đang trong mùa đông nhưng nhiệt độ vẫn trên 00C và có mưa nhiều hơn là tuyết.

Khí hậu ở Canada – Bang Alberta

Alberta là tỉnh bang nằm ở phía Tây Canada và không giáp biển. Là tỉnh bang có số dân đông thứ 4 của Canada. Thành phố Calgary là thành phố phát triển và lớn nhất bang Alberta, cũng là thành phố nhộn nhịp đứng thứ 5 Canada.

Khí hậu ở khu vực bang Alberta thay đổi dần từ Bắc xuống Nam. Khu vực này mang khí hậu lục địa khô, mùa hè nóng, mùa đông lạnh. Nhiệt độ trung bình vào mùa hè từ khoảng 21°C đến 30°C tùy khu vực địa hình. Vào mùa thu từ khoảng tháng 7, nhiệt độ trở nên mát mẻ hơn, từ 16°C ở phía bắc và khoảng 24°C ở phía Nam. Khí hậu tại các tỉnh bang của Canada tuy có khác và lạnh hơn khí hậu Việt Nam, nhưng cũng phải là nơi khí hậu quá khắc nghiệt. Vì vậy, việc cần thiết để quyết định du học Canada là tìm hiểu kĩ khu vực mình sinh sống, và chuẩn bị một cách chu đáo cho hành trình dài của mình, thì chẳng có khó khăn gì về điều kiện khí hậu cả.

Khí hậu ở Canada – Bang British Columbia (B.C)

Khí hậu ở bang BC mang tính chất ôn đới hải dương ôn hòa và ẩm ướt, vì vậy đây cũng là sự lựa chọn của nhiều du học sinh Việt Nam khi học tại Canada.

Bang B.C là bang có mùa đông dễ chịu nhất, bởi khu vực này nhận được gió ấm thổi từ Thái Bình Dương. Và khí hậu cũng được phân hóa thành 4 mùa xuân – hạ – thu – đông. Nhiệt độ trung bình của bang này là 15 độ C. Phần lãnh thổ phía Bắc có nhiệt độ thấp hơn phía Nam bang B.C. Vì tỉnh bang BC cũng hình thành trên nhiều địa hình khác nhau, nên các mùa trong năm ở các vùng từ Bắc xuống Nam có sự đa dạng. Bạn có dự định về việc sinh sống và định cư doanh nhân BC?

Khí hậu ở Canada – Tỉnh bang Quebec

Quebec được xem là nước Pháp trong lòng Canada, có khí hậu 4 mùa rõ rệt. Miền nam Quebec là nơi tập trung nhiều dân cư, cũng là vùng có khí hậu ôn hòa

Mùa xuân ở Quebec tuyết bắt đầu tan, khi chuyển sang mùa hè thời tiết trở nên ấm áp hơn. Mùa thu nhiệt độ giảm dần, trở nên mát mẻ và rừng cây lá phong cũng bắt đầu thay lá. Đông sang đây cũng là thời kỳ lạnh nhất ở Bang Quebec. Thủ phủ Calgary của tỉnh bang Quebec là thành phố cao nguyên với khí hậu khô ráo, nhiệt độ ôn hòa. Mỗi năm, tại thành phố Calgary có trung bình khoảng 2.300 giờ chiếu sáng. Làm cho Calgary trở thành thành phố lớn có nhiều nắng nhất trong cả nước. Muốn định cư Quebec có dễ hay không?

Khí hậu ở Canada – Vancouver

Vancouver là thành phố phát triển nhất bang B.C. Là một trong những đô thị sầm uất của Canada. Vancouver cũng là một trong những thành phố có khí hậu nóng ẩm nhất Canada. Mùa hè khô ráo, mát mẻ nhất Canada. Mùa đông, mùa thu và mùa xuân khá ẩm ướt. Đây cũng là thành phố ít tuyết rơi, và mùa đông cũng không kéo dài.

Khí hậu ở Canada – Bang Ontario

Ontario là một tỉnh bang rộng lớn của Canada với địa hình khá đa dạng vì vậy, khí hậu ở bang này cũng được phân hóa phóng phú, và tạo thành 3 miền khí hậu riêng biệt.

Phía Bắc: khí hậu khắc nghiệt, mùa đông lạnh kéo dài. Mùa hè mát mẻ hơn nhưng thời gian lại khá ngắn. Phía Đông và trung tâm: ở khu vực này, mùa hè thường nóng, còn mua đông thì tuyết rơi khá nhiều. Phía Tây Nam: đây là vùng có khí hậu dễ chịu nhất trong 3 vùng. Mùa hè nóng ẩm, mùa đông có tuyết rơi. Đây cũng là khu vực thu hút nhiều dân cư, đặc biệt là du học sinh đến sinh sống và học tập.

Thủy văn Canada

Canada có trữ lượng lớn nước: các dòng sông của Canada xả gần 9% lượng nước tái tạo của thế giới, đồng thời quốc gia này còn sở hữu một phần tư các vùng đất ngập nước của thế giới và có lượng sông băng lớn thứ ba (sau Nam Cực và Greenland).Vì thời kỳ băng hà kéo dài, Canada có hơn hai triệu hồ: tính riêng các hồ nằm gọn trong lãnh thổ quốc gia, có 31.000 hồ có diện tich rơi vào khoảng 3 và 100 kilômét vuông (1,2 và 38,6 sq mi) và 563 hồ lớn hơn 100 km2 (38,6 sq mi)

canada 1
Thủy văn Canada

Sông ngòi

Hai con sông dài nhất ở Canada là sông Mackenziev đổ vào Bắc Băng Dương và thoát nước cho phần lớn vùng Đông Bắc của Canada cùng với sông St. Lawrence thoát nước cho Ngũ Đại Hồ và đổ ra vịnh St. Lawrencewhich. Sông Mackenzie dài hơn 4.200 km (2.600 mi) và sông St. Lawrence dài hơn 3.000 km (1.900 mi). Mười con sông dài nhất nằm trong lãnh thổ của Canada là các sông Nelson, Churchill, Peace, Fraser, North Saskatchewan, Ottawa, Athabasca và Yukon

Lưu vực thoát nước

Lưu vực Đại Tây Dương thoát nước toàn bộ các tỉnh Atlantic (các phần của biên giới Quebec-Labrador được cố định tại phân chia lục địa Đại Tây Dương-Bắc Cực), đa phần vùng có người sinh sống ở Quebec và phần lớn vùng phía nam Ontario. Lưu vực này thoát nước chủ yếu bởi con sông có vị trí kinh tế quan trọng St. Lawrence và các phụ lưu của nó, đáng chú ý là các sông Saguenay, Manicouagan và Ottawa. Ngũ Đại Hồ và hồ Nipigon cũng bị sông St. Lawrence thoát nước. Sông Churchill và sông Saint John là những nhân tố quan trọng khác của lưu vực Đại Tây Dương ở Canada.

Lưu vực vịnh Hudson thoát nước cho một phần ba lãnh thổ Canada, bao gồm Manitoba, phía bắc Ontario và Quebec, hầu hết các bang Saskatchewan, miền nam Alberta, tây nam Nunavut và nửa phía nam của đảo Baffin. Lưu vực này có vai trò quan trọng nhất trong việc chống hạn hán ở đồng cỏ và sản xuất thủy điện, đặc biệt là ở Manitoba, miền bắc Ontario và Quebec. Các nhân tố chính của lưu vực này bao gồm Hồ Winnipeg, sông Nelson, sông Bắc Saskatchewan và Nam Saskatchewan, sông Assiniboine và hồ Nettilling trên đảo Baffin. Hồ Wollaston nằm trên ranh giới giữa lưu vực vịnh Hudson và Bắc Băng Dương và thoát nước theo cả hai lưu vực. Đây là hồ lớn nhất trên thế giới thoát nước tự nhiên theo hai hướng.

Phân chia lục địa ở Rockies ngăn cách lưu vực Thái Bình Dương ở British Columbia và Yukon khỏi lưu vực Bắc Cực và lưu vực Vịnh Hudson. Lưu vực này được sử dụng để tưới tiêu cho các vùng nông nghiệp quan trọng của khu vực British Columbia (như các thung lũng Okanagan và Kootenay) và sản xuất thủy điện. Các nhân tố chính của lưu vực là sông Yukon, Columbia và sông Fraser.

Các phần phía bắc của Alberta, Manitoba và British Columbia, hầu hết các vùng lãnh thổ Tây Bắc và Nunavut, một phần của Yukon bị thoát nước bởi lưu vực Bắc Cực. Lưu vực này ít được sử dụng cho thủy điện, ngoại trừ con sông dài nhất ở Canada là sông Mackenzie. Các sông Peace, Athabasca và Liard cũng như hồ Gấu Lớn và hồ Slave Lớn (là các hồ lớn nhất và thứ hai nằm trong lãnh thổ Canada) là những nhân tố quan trọng của lưu vực Bắc Cực. Các nhân tố này sau đó hợp nhất với Mackenzie, do đó thoát nước phần lớn cho lưu vực Bắc Cực.

Phần cực nam của Alberta chảy vào Vịnh Mexico qua sông Milk và các nhánh của nó. Sông Milk bắt nguồn trên dãy núi Rocky thuộc địa phận Montana, chảy xuống Alberta, quay trở lại Hoa Kỳ, sau đó bị sông Missouri thoát nước. Một khu vực nhỏ ở phía tây nam Saskatchewan bị thoát nước bởi dòng chảy Battle Creek đổ vào sông Milk.

Dân số của Canada

Dân số hiện tại của Canada là 37.408.243 người vào ngày 24/11/2019 theo số liệu mới nhất từ Liên Hợp Quốc.

Dân số Canada hiện chiếm 0,49% dân số thế giới.

Canada đang đứng thứ 38 trên thế giới trong bảng xếp hạng dân số các nước và vùng lãnh thổ.

Mật độ dân số của Canada là 4 người/km2.

Với tổng diện tích đất là 9.071.595 km2. 81,41% dân số sống ở thành thị (30.084.496 người vào năm 2018).

Độ tuổi trung bình ở Canada là 41 tuổi.

Dân số Canada (năm 2019 và lịch sử)

Trong năm 2019, dân số của Canada dự kiến sẽ tăng 326.046 người và đạt 37.441.609 người vào đầu năm 2020. Gia tăng dân số tự nhiên được dự báo là dương, vì số lượng sinh sẽ nhiều hơn số người chết đến 107.349 người. Nếu tình trạng di cư vẫn ở mức độ như năm trước, dân số sẽ tăng 218.697 người. Điều đó có nghĩa là số người chuyển đến Canada để định cư sẽ chiếm ưu thế so với số người rời khỏi đất nước này để định cư ở một nước khác.

Theo ước tính của chúng tôi, tỷ lệ thay đổi dân số hàng ngày của Canada vào năm 2019 sẽ như sau:

1.065 trẻ em được sinh ra trung bình mỗi ngày

771 người chết trung bình mỗi ngày

599 người di cư trung bình mỗi ngày

Dân số Canada sẽ tăng trung bình 893 người mỗi ngày trong năm 2019.

Nhân khẩu Canada 2018

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2018, dân số Canada ước tính là 37.118.128 người, tăng 329.566 người so với dân số 36.790.336 người năm trước. Năm 2018, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên là dương vì số người sinh nhiều hơn số người chết đến 110.700 người. Do tình trạng di cư dân số tăng 218.866 người. Tỷ lệ giới tính trong tổng dân số là 0,984 (984 nam trên 1.000 nữ) cao hơn tỷ lệ giới tính toàn cầu. Tỷ lệ giới tính toàn cầu trên thế giới năm 2018 khoảng 1.017 nam trên 1.000 nữ.

Dưới đây là những số liệu chính về dân số ở Canada trong năm 2018:

387.942 trẻ được sinh ra

277.241 người chết

Gia tăng dân số tự nhiên: 110.700 người

Di cư: 218.866 người

18.409.394 nam giới tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2018

18.708.734 nữ giới tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2018

canada 2
Biểu đồ dân số Canada 1950 – 2017
canada 3
Biểu đồ tốc độ gia tăng dân số Canada 1951 – 2017

Hành chính Canada

canada 6
Hành chính Canada

Canada có một hệ thống nghị viện trong khuôn khổ chế độ quân chủ lập hiến, chế độ quân chủ của Canada là nền tảng của các nhánh hành pháp, lập pháp, và tư pháp. Quân chủ của Canada là Nữ vương Elizabeth II, bà cũng đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia của 15 quốc gia khác và là nguyên thủ của mỗi tỉnh tại Canada. Đại diện cho Nữ vương là Toàn quyền Canada, người này thực hiện hầu hết các chức trách của quân chủ liên bang tại Canada.

Các nhân vật quân chủ và phó quân chủ bị hạn chế trong việc tham gia trực tiếp vào các lĩnh vực cai trị.Trong thực tiễn, họ sử dụng các quyền hành pháp theo chỉ dẫn của Nội các, đây là một hội đồng gồm các bộ trưởng của Vương quốc chịu trách nhiệm trước Chúng nghị viện, do Thủ tướng Canada lựa chọn và đứng đầu, thủ tướng là người đứng đầu chính phủ (Thủ tướng hiện tại là ông Justin Trudeau). Trong các tình thế khủng hoảng nhất định, Toàn quyền hay quân chủ có thể thực thi quyền lực của họ mà không phải dựa theo cố vấn của các bộ trưởng. Nhằm đảm bảo tính ổn định của chính phủ, toàn quyền theo thường lệ sẽ bổ nhiệm thủ tướng là người đang giữ chức lãnh tụ của chính đảng có thể đạt được một đa số tại Chúng nghị viện. Văn phòng Thủ tướng (PMO) do đó là một trong những cơ quan quyền lực nhất trong chính phủ, đề xuất hầu hết các pháp luật để nghị viện phê chuẩn và lựa chọn chức vụ được Quân chủ bổ nhiệm. Các chức vụ này, ngoài đã được nhắc đến ở trên, còn có toàn quyền, phó tổng đốc, tham nghị sĩ, thẩm phán tòa án liên bang, và người đứng đầu các công ty quốc doanh (Crown corporations), và các cơ quan của chính phủ. Lãnh tụ của chính đảng có số ghế nhiều thứ hai thường trở thành ‘Lãnh tụ phe đối lập trung thành của Bệ hạ’ và là một phần trong một hệ thống nghị viện đối kháng nhằm duy trì sự kiểm tra đối với chính phủ.

Mỗi một trong số 308 nghị sĩ tại Chúng nghị viện được bầu theo đa số giản đơn trong một khu vực tuyển cử. Tổng tuyển cử phải do toàn quyền yêu cầu, theo cố vấn của thủ tướng trong vòng bốn năm tính từ cuộc bầu cử trước đó, hoặc nếu chính phủ thất bại trong một cuộc bỏ phiếu tín nhiệm tại nghị viện. 105 thành viên của Tham nghị viện, với số ghế được phân chia theo một cơ sở vùng miền, họ phục vụ cho đến tuổi 75. Năm chính đảng có đại biểu được bầu vào nghị viện liên bang trong cuộc bầu cử năm 2011: Đảng Bảo thủ (đảng cầm quyèn), Đảng Tân Dân chủ (đối lập chính thức), Đảng Tự do, Khối Người Québec, và Đảng Xanh.

Cấu trúc liên bang của Canada phân chia các trách nhiệm của chính phủ giữa chính phủ liên bang và 10 tỉnh. Các cơ quan lập pháp cấp tỉnh theo đơn viện chế và hoạt động theo kiểu cách nghị viện tương tự như Chúng nghị viện. Ba lãnh thổ của Canada cũng có các cơ quan lập pháp, song chúng không có chủ quyền và có ít trách nhiệm hiến pháp hơn so với các tỉnh. Cơ quan lập pháp của các lãnh thổ cũng có cấu trúc khác biệt so với cơ quan tương đương của các tỉnh.

Tài nguyên thiên nhiên Canada

Tầm quan trọng liên tục của tài nguyên thiên nhiên Canada đối với nền kinh tế thể hiện sự phong phú của chúng. Các ngành công nghiệp dựa trên tài nguyên chính là ngư nghiệp, lâm nghiệp, nông nghiệp, sản xuất các sản phẩm dầu mỏ và khai thác.

Ngành thủy sản từng là một trong những ngành mạnh nhất trong lịch sử Canada. Trữ lượng cá tuyết khổng lồ ở các bãi ngầm Grand của Newfoundland là khởi đầu cho ngành công nghiệp này vào thế kỷ 16. Ngày nay, lượng dự trữ này gần như đã cạn kiệt và việc bảo tồn chúng đã trở thành mối bận tâm của các tỉnh Atlantic. Ở Bờ Tây, trữ lượng cá ngừ đại dương hiện bị hạn chế. Số lượng cá hồi ít bị suy giảm (nhưng vẫn giảm đáng kể) tiếp tục dẫn đầu ngành thủy sản phát triển mạnh. Bên cạnh đó, những năm gần đây, các loài động vật có vỏ chiếm ưu thế trong ngành thủy sản của Canada. Canada đưa ra yêu sách có lãnh hải dài 22 km (12 nmi), vùng tiếp giáp 44 km (24 nmi), vùng đặc quyền kinh tế 370 km (200 nmi) và thềm lục địa dài 370 km (200 nmi) hoặc trải dài đến rìa lục địa.

Lâm nghiệp từ lâu đã là một ngành công nghiệp lớn ở Canada. Năm 2017, xuất khẩu lâm sản Canada đạt giá trị 35,7 tỷ USD. Các tỉnh có ngành lâm nghiệp lớn nhất là British Columbia, Ontario và Quebec. Ba mươi lăm phần trăm diện tích đất của Canada được bao phủ bởi rừng. Các khu rừng phương bắc chiếm hơn ba phần tư diện tích đất rừng của Canada.

Gần 5% diện tích đất của Canada là đất trồng trọt, hầu như không có phần đất nào dành để trồng các cây trồng lâu dài. Ba phần trăm diện tích đất của Canada được bao phủ bởi các đồng cỏ vĩnh viễn. Canada có 688 000 héc ta đất tưới tiêu (năm 1996). Các khu vực nông nghiệp ở Canada bao gồm Bình nguyên Canada, Lower Mainland và các khu vực khác ở nội địa British Columbia, sông St. Saint Lawrence và vùng Maritimes. Các loại cây trồng chính ở Canada bao gồm lanh, yến mạch, lúa mì, ngô, lúa mạch, củ cải đường và lúa mạch đen trên các đồng cỏ; lanh và ngô ở Tây Ontario; yến mạch và khoai tây ở vùng Maritimes. Cây ăn quả và rau được trồng chủ yếu ở Thung lũng Annapolis, Tây Nam Ontario, vùng Golden Horseshoe, dọc theo bờ biển phía nam của Vịnh Georgia và ở thung lũng Okanagan. Gia súc và cừu được nuôi ở các thung lũng và cao nguyên của British Columbia. Gia súc, cừu và lợn được nuôi trên các đồng cỏ, trong đó gia súc và lợn được nuôi ở Tây Ontario, ở Quebec nuôi cừu, lợn và vùng Maritimes nuôi lợn. Có nhiều vùng sản xuất bơ sữa quan trọng nằm ở trung tâm Nova Scotia, miền nam New Brunswick, Thung lũng St. Lawrence, Đông Bắc Ontario, Tây Nam Ontario, thung lũng sông Red ở Manitoba và các thung lũng nội địa British Columbia, trên Đảo Vancouver và ở Lower Mainland.

Nhiên liệu hóa thạch là một nguồn tài nguyên được phát triển gần đây ở Canada với dầu và khí được khai thác từ các mỏ ở lưu vực trầm tích Tây Canada từ giữa những năm 1900. Dù mỏ dầu thô của Canada ít hơn các nước, nhưng với sự phát triển công nghệ trong những thập kỷ gần đây đã mở cửa cho việc sản xuất cát dầu ở Alberta khiến Canada hiện có một số trữ lượng dầu lớn nhất trên thế giới. Về các ngành khác, công nghiệp Canada có một lịch sử lâu dài về việc khai thác than và trữ lượng khí đốt tự nhiên lớn.

Tài nguyên khoáng sản của Canada rất đa dạng và phong phú. Trên khắp khu vực Canadian Shield và ở phía bắc có lượng lớn sắt, niken, kẽm, đồng, vàng, chì, molypden và uranium dự trữ. Một lượng lớn kim cương đã được khai thác gần đây ở Bắc Cực, khiến Canada trở thành một trong những nhà sản xuất kim cương lớn nhất thế giới. Trên khắp vùng Shield có nhiều thị trấn khai thác các khoáng sản này. Lớn nhất và được biết đến nhiều nhất là Sudbury, Ontario. Sudbury có sự khác biệt đối với quá trình hình thành khoáng sản thông thường ở vùng Shield vì có bằng chứng quan trọng cho thấy lưu vực Sudbury là một hố va trạm vẫn thạch. Vùng từ tính dị thường Temagami lân cận ít được biết đến cũng có những điểm nổi bật tương đồng với lưu vực Sudbury. Các từ tính dị thường của nó rất giống với lưu vực Sudbury và do đó nó có thể là một miệng hố va chạm giàu kim loại thứ hai. Vùng Shield cũng được bao phủ bởi những khu rừng rộng lớn hỗ trợ cho ngành công nghiệp khai thác gỗ quan trọng.

Nhiều con sông của Canada đã đủ khả năng phát triển thủy điện. Nhiều con đập được phát triển rộng rãi ở British Columbia, Ontario, Quebec và Labrador từ lâu đã cung cấp một nguồn năng lượng sạch và bảo đảm

Trên đây là những thông tin liên qua đến bản đồ Canada do 350.org.vn tổng hợp và chia sẻ đến các bạn. Hy vọng với những thông tin trên đây sẽ giúp bạn có thêm thông tin địa lý về Canada nhé!

Related Posts

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *